Ngày 12/03/2004 Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 42/2004/CT- TTg Về việc sơ kết
5 năm thực hiện Nghị định số 15/2001/NĐ - CP về giáo dục quốc phòng |
Theo đó, Thủ tướng yêu cầu cần đánh giá đúng kết quả đã làm được, những tồn
tại vướng mắc, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm trong quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác giáo dục quốc phòng
trong những năm qua, đề xuất chủ trương, biện pháp đổi mới nội dung, tổ chức,
phương pháp giáo dục quốc phòng, bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách phù hợp
với thực tiễn, xây dựng kế hoạch hành động sát thực với những giải pháp cụ
thể để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác giáo dục quốc phòng đi
vào nền nếp và đạt hiệu quả tốt hơn… Thời gian sơ kết: đối với cấp huyện:
hoàn thành trước tháng 6/2005, đối với cấp tỉnh, quân khu, các Bộ, ngành có
liên quan: trước tháng 9/2005. Chính phủ tổ chức hội nghị sơ kết toàn quốc
vào quý IV năm 2005… |
Ngày 12/03/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 197/2004/NĐ- CP Về việc
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. |
Nghị định quy định: người bị thu hồi đất còn được bồi thường nếu có đủ:
giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất hợp lệ nhưng mang tên người khác và
được chính quyền địa phương xác nhận không tranh chấp, người đang sử
dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và đang trực tiếp sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc nuôi trồng thủy sản tại các vùng miền núi,
hải đảo và được xác nhận không có tranh chấp, các cá nhân sử dụng đất
theo bản án hoặc quyết định của tòa án nhân dân, các cá nhân sử dụng đất
từ trước ngày 15/10/1993, không có giấy tờ chứng nhận nhưng tại thời
điểm thu hồi đất không vi phạm qui hoạch, hành lang bảo vệ các công
trình, không phải là đất lấn chiếm trái phép… Giá đất để tính bồi
thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng tại thời điểm có quyết định
thu hồi đất do UBND cấp tỉnh công bố, không bồi thường theo giá đất sẽ
được chuyển mục đích sử dụng. Trường hợp thực hiện bồi thường chậm
do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra mà giá đất tại thời
điểm bồi thường do UBND cấp tỉnh công bố cao hơn giá đất tại thời điểm
có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm trả tiền
bồi thường, nếu giá đất tại thời điểm bồi thường thấp hơn giá đất tại
thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời
điểm có quyết định thu hồi. Trường hợp bồi thường chậm do người bị thu
hồi đất gây ra, nếu giá đất tại thời điểm bồi thường thấp hơn giá đất
tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời
điểm bồi thường, nếu giá đất tại thời điểm bồi thường cao hơn giá đất
tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời
điểm có quyết định thu hồi. Người sử dụng đất phải di chuyển chỗ ở
thì được bố trí tái định cư bằng một trong 3 hình thức: bồi thường bằng
nhà ở, bồi thường bằng giao đất ở mới, bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ
ở mới. Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công
báo. Nghị định được đăng trên công báo số 08 - 12/2004, có hiệu lực
từ |
Ngày 12/03/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 200/2004/NĐ- CP về sắp
xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc | Theo đó,
Chính phủ quy định: những lâm trường đang quản lý chủ yếu là rừng phòng
hộ có diện tích từ 5.000 ha trở lên, rừng đặc dụng có diện tích từ 1.000
ha trở lên (trường hợp đặc biệt có thể nhỏ hơn) thì chuyển thành Ban
Quản lý rừng phòng hộ, Ban Quản lý rừng đặc dụng, hoạt động theo cơ chế
đơn vị sự nghiệp có thu. Những lâm trường đang quản lý diện tích đất
rừng ít (dưới 1000 ha), phân bố xen kẽ với đất nông nghiệp, gần khu dân
cư thì rà soát điều chỉnh lại quy mô diện tích phù hợp và chuyển thành
đơn vị sự nghiệp có thu, làm dịch vụ sản xuất cây giống, xây dựng mô
hình ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân trong vùng…
Thực hiện thí điểm cổ phần hoá các lâm trường sở hữu kinh doanh rừng
trồng, có điều kiện sản xuất tương đối thuận lợi, gần các trung tâm kinh
tế, lâm trường có ít lao động đồng bào dân tộc thiểu số. Trước mắt thí
điểm cổ phần hoá các lâm trường kinh doanh rừng trồng gắn với cơ sở chế
biến, trong đó thực hiện bán cổ phần ưu đãi cho người sản xuất cung cấp
nguyên liệu cho các cơ sở chế biến… |
Ngày 12/03/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 43/2004/CT-TTg Về
việc chuyển giao nhà ở thuộc sỏ hữu Nhà nước cho ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương | Thực hiện
Nghị quyết số 06/2004/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2004 của Chính phủ về
một số giải pháp phát triển lành mạnh thị trường bất động sản, Thủ tướng
Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịchUỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thực hiện nghiêm một số yêu cầu sau: Việc chuyển giao được thực
hiện trên nguyên tắc chuyển giao nguyên trạng diện tích nhà, đất và hợp
đồng cho thuê… 2. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo việc nhận chuyển giao và thực hiện
việc bán nhà ở cho những người đang thuê theo quy định tại Nghị định số
61/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ. Việc bán quỹ nhà ở này
phải hoàn thành trong năm 2005 theo đúng tinh thần Nghị quyết số
06/2004/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2004 của Chính phủ. 3. Đối với
những nhà ở thuộc diện không được bán hoặc nhà ở mà người đang thuê
không mua, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
phải lập quy hoạch, kế hoạch để từ năm 2006 tiến hành việc di chuyển các
hộ dân nhằm xây dựng hoặc cải tạo lại, bảo đảm duy trì chất lượng và
khai thác có hiệu quả quỹ nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước. 4. Định kỳ 6
tháng, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quỹ
nhà ở nói trên phải có báo cáo gửi về Bộ Xây dựng để tổng hợp báo cáo
Thủ tướng Chính phủ về kết quả thực hiện Chỉ thị này. Các Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu
trách nhiệm thực hiện tốt Chỉ thị này. Chỉ thị này có hiệu lực ngay
và được đăng trên công báo số 09 - 12/2004 |
Ngày 12/03/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
200/2004/QĐ-TTG Về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ của ban
xây dựng pháp luật thuộc văn phòng Chính phủ |
Theo đó, Ban Xây dựng pháp luật là tổ chức thuộc Văn phòng Chính phủ có
chức năng giúp Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (sau đây gọi tắt
là Bộ trưởng, Chủ nhiệm) tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
trong công tác chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh trình
Quốc hội,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tổ
chức thẩm tra dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của
pháp luật. Ban Xây dựng pháp luật có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng, Chủ
nhiệm trong việc: 1. Tham mưu, kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ
chỉ đạo về định hướng, mục tiêu của Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh; thẩm tra tờ trình về lập dự kiến Chưương trình xây dựng luật, pháp
lệnh cả nhiệm kỳ của Chính phủ và hàng năm để trình Chính phủ xem xét
thông qua, trìnhUỷ ban Thưường vụ Quốc hội và Quốc hội quyết định.
2. Tham mưưu, kiến nghị với Thủ tưướng Chính phủ quyết định việc phân
công cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì xây
dựng các dự án luật, pháp lệnh theo Nghị quyết của Quốc hội về Chưương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội cả khoá và hàng năm. 3.
Đôn đốc các Ban soạn thảo thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh, Chưương trình công tác của Chính phủ (phần công tác xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật); phối hợp với Ban soạn thảo xây dựng các dự án
luật, pháp lệnh quy định chi tiết và hưưướng dẫn thi hành luật, pháp
lệnh. 4. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu,
tham mưưu cho Thủ tưướng Chính phủ chỉ đạo các Ban soạn thảo về quan
điểm, nội dung, ý kiến đối với các dự án luật, pháp lệnh quan trọng,
liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực…. Quyết định này có hiệu lực
sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Quyết định được đăng trên
công báo số 10 - 12/2004, có hiệu lực từ ngày 25-12-2004. |
Ngày 12/07/2004 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 116/2004/TT-BTC Hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ- CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi | Theo đó, Bộ Tài chính hướng
dẫn: đối với nhà, công trình xây dựng trên đất việc bồi thường dựa trên
xác định tỷ lệ % chất lượng còn lại của nhà, công trình bị thiệt hại do
cơ quan được giao thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thực
hiện với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành… Việc người đang
sử dụng nhà ở thuộc sở hữu nhà nước bị phá dỡ được thuê nhà tại nơi tái
định cư. Trường hợp đặc biệt không có nhà tái định cư để bố trí thì
người sử dụng nhà thuộc sở hữu nhà nước được hỗ trợ bằng tiền để lo chỗ
ở mới, mức hỗ trợ bằng 60% giá trị nhà đang thuê. Trường hợp có nhà tái
định cư để bố trí, nhưng người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
không thuê, thì không được hỗ trợ bằng tiền… Khi Nhà nước thu hồi
đất của các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất, kinh doanh có đăng ký kinh
doanh mà bị ngừng sản xuất, kinh doanh, được hỗ trợ tối đa bằng 30% một
năm thu nhập sau thuế, tính theo mức thu nhập bình quân của 3 năm trước
đó… Việc bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp của hộ gia đình,
cá nhân bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm
nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối... Riêng, đối với đất nông
nghiệp xen kẽ trong khu dân cư, đất vườn ao liền kề với đất trong khu
dân cư, ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp cùng loại
còn được hỗ trợ bằng tiền. Giá đất tính hỗ trợ từ 20% - 50% giá đất liền
kề cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định… Trường hợp chưa giao ổn định
lâu dài, khi Nhà nước thu hồi không được bồi thường đất, mà được bồi
thường chi phí đầu tư vào đất... Việc bồi thường đối với đất thuộc hành
lang an toàn khi xây dựng công trình: Nếu hành lang bảo vệ an toàn công
trình chiếm dụng khoảng không trên 70% diện tích đất sử dụng có nhà ở,
công trình của một số chủ sử dụng đất, thì phần diện tích đất còn lại
cũng được bồi thường theo quy định hiện hành… Thông tư này có hiệu
lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. |
Ngày 25/11/2004 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 113/2004/TT-BTC Hướng
dẫn công tác khoá sổ kế toán cuối năm và lập, báo cáo quyết toán ngân sách
nhà nước năm 2004 | Theo đó, các nguồn thực
hiện cải cách tiền lương năm 2004 theo chế độ đã giao đơn vị dự toán
ngân sách nhưng chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa hết, được chuyển sang năm
2005 để thực hiện cải cách tiền lương theo quy định… Vốn đầu tư xây
dựng cơ bản được cơ quan tài chính thông báo cho dự án, công trình,
thông báo cho Kho bạc nhà nước thuộc dự toán ngân sách năm 2004 được
thanh toán đến hết ngày 31/1/2005, số dư còn lại không được chi tiếp…
Trường hợp kinh phí tạm ứng theo chế độ thuộc dự toán ngân sách năm 2004
của đơn vị sử dụng ngân sách không đủ chứng từ thanh toán trong thời
gian chỉnh lý quyết toán ngân sách mà cần chuyển sang năm 2005 thực hiện
tiếp, đơn vị sử dụng ngân sách báo cáo đơn vị dự toán ngân sách cấp trên
trực tiếp…,br> Thông tư này có hiệu lực thi hành đối với công tác khoá
sổ kế toán cuối năm và lập, báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm
2004. Thông tư này có hiệu lực ngay. |
Ngày 29/11/2004 Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 3961TCT/ĐTNN Về việc
Chuyển lỗ khi Sáp nhập doanh nghiệp. | Theo
Công văn gửi Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ngày
29/11/2004 thì Tổng cục Thuế Hà Nội đã hướng dẫn thực hiện việc chuyển
lỗ khi sáp nhập doanh nghiệp của các Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài như sau: Tại điểm 1, mục IV, Phần D Thông tư số
128/2003/TT-BTC ngày 22/12/2003 của Bộ Tài chính qui định: cơ sở kinh
doanh khi chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển đổi hình thức sở
hữu, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản phải thực hiện
quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) với cơ quan thuế đến thời
điểm có quyết định chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển đổi hình
thức sở hữu, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản của cơ
quan có thẩm quyền. Số lỗ của các doanh nghiệp phát sinh trước khi
sáp nhập, chia tách phải được theo dõi chi tiết theo năm phát sinh để
đảm bảo nguyên tắc chuyển lỗ không quá 5 năm. Ví dụ: Trường hợp
doanh nghiệp A sáp nhập vào doanh nghiệp B năm 2004, doanh nghiệp A có
các khoản lỗ chưa kết chuyển hết thì doanh nghiệp B phải theo dõi riêng
số lỗ đã phát sinh từng năm tài chính của doanh nghiệp A và đảm bảo từng
khoản lỗ phát sinh được tiếp tục chuyển sang các năm tiếp theo và được
bù trừ bằng lợi nhuận phát sinh của những năm tiếp theo trong vòng 5 năm
kể từ năm phát sinh lỗ. Các khoản lỗ phát sinh đã quá 5 năm mà không bù
trừ hết bằng lợi nhuận các năm tiếp theo thì không được tiếp tục kết
chuyển, nhà đầu tư tự bù đắp các khoản lỗ này bằng lợi nhuận sau thuế
thu nhập doanh nghiệp. |
Ngày 29/11/2004 Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 3960TCT/ĐTNN Hướng dẫn
hoàn thuế GTGT theo Thông tư số 84/2004/TT-BTC ngày 18/8/2004 của Bộ Tài
chính. | Theo đó, Tổng cục Thuế nhận hướng
dẫn các Cục thuế một số tỉnh, thành phố và doanh nghiệp về thủ tục đối
với trường hợp hoàn thuế theo hướng dẫn tại Điểm 7, Điểm 12 Thông tư số
84/2004/TT-BTC ngày 18/8/2004 của Bộ Tài chính như sau: Căn cứ theo
hướng dẫn tại Thông tư số 84/2004/TT-BTC nêu trên, các trường hợp từ
ngày 01/01/2004 cơ sở kinh doanh cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp chế
xuất nếu có đầy đủ thủ tục hướng dẫn tại Thông tư này, đã tính thuế
GTGT, lập hoá đơn GTGT, thanh toán theo giá có thuế GTGT và kê khai nộp
thuế GTGT thì cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp chế xuất lập biên bản
điều chỉnh giá thanh toán theo thuế suất thuế GTGT 0%, hoá đơn GTGT để
điều chỉnh lại thuế GTGT đã kê khai cho các hoá đơn này. Để được
điều chỉnh giá thanh toán theo thuế suất thuế GTGT 0% như nêu trên, cơ
sở kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp chế xuất gửi trả hoá đơn GTGT đã phát
hành, hai bên lập biên bản điều chỉnh lại giá thanh toán theo thuế suất
thuế GTGT 0%, cơ sở kinh doanh lập lại hoá đơn GTGT mới với thuế suất
thuế GTGT 0%, trong đó ghi rõ số, ký hiệu, ngày tháng của hoá đơn GTGT
được thay thế. Trên cơ sở biên bản, hoá đơn GTGT điều chỉnh đã lập và
hoá đơn GTGT được thay thế (thu hồi lại) này, cơ sở kinh doanh hoàn trả
lại tiền thuế GTGT cho doanh nghiệp chế xuất. Đồng thời, đối với số thuế
GTGT đã nộp vào ngân sách Nhà nước cho dịch vụ này cơ sở kinh doanh được
kê khai điều chỉnh giảm trong tờ khai thuế GTGT của tháng lập hoá đơn
GTGT điều chỉnh và được cơ quan thuế hoàn trả lại theo phương pháp cho
bù trừ vào số thuế GTGT phải nộp trong kỳ tính | |