Xin chào, Kỳ nghỉ hè
thật tuyệt vời. Chúng tôi đã cùng nhau
tận hưởng trời xanh mây trắng nắng vàng. Tuần
vừa rồi, chúng tôi cũng đã có một lễ
kỷ niệm ngày truyền thống của công ty thật vui
vẻ và tình cảm. ~longpt
|
BẢN TIN PHÁP LUẬT Số 2006-32 Từ:
14/08/2006 Đến: 19/08/2006
|
Ngày 01/08/2006
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
74/2006/NĐ-CP Về tổ chức và hoạt động của Thanh tra
tư pháp. |
Thanh tra Tư pháp
là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở
Trung ương có Thanh tra Bộ Tư pháp; ở tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư
pháp; thực hiện chức năng thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong
phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư
pháp theo quy định của pháp luật. Đối
tượng của Thanh tra Tư pháp: Cơ quan, đơn vị, cá
nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của cơ quan
quản lý nhà nước về tư pháp; Cơ quan, tổ
chức và cá nhân Việt Nam trong việc chấp
hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý
nhà nước của Bộ Tư pháp; Cơ quan, tổ chức
và cá nhân nước ngoài tại Việt Nam
có hoạt động trong các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Thanh
tra Bộ là cơ quan của Bộ Tư pháp, chịu sự chỉ
đạo, lãnh đạo trực tiếp của Bộ trưởng, có
trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý nhà
nước về công tác thanh tra tư pháp, thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư
pháp. Thanh tra Sở là cơ quan của Sở Tư
pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp
của Giám đốc Sở, giúp Giám đốc Sở thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành về tư pháp trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc Sở Tư
pháp. Thanh tra viên phải là cử nhân
luật hoặc tốt nghiệp đại học chuyên ngành
khác và có kiến thức pháp luật trong
các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà
nước của Bộ Tư pháp và đáp ứng tiêu
chuẩn chung của Thanh tra viên. Nghị định này
có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ
ngày đăng Công báo./. |
Ngày 03/08/2006
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
77/2006/NĐ-CP Về tổ chức và hoạt động của Thanh tra y
tế. |
Thanh tra Y tế là cơ
quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực, ở trung ương có
Thanh tra Y tế thuộc bộ Y tế (Sau đây gọi tắt là
Thanh tra Bộ), ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(sau đây gọi tắt là cấp tỉnh) có Thanh tra Y
tế thuộc Sở Y tế (sau đây gọi tắt là Thanh tra
Sở); thực hiện chức năng thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản
lý nhà nước về y tế theo quy định của pháp
luật. Ở Trung ương có Thanh tra Y tế thuộc Bộ Y
tế; Ở cấp tỉnh có Thanh tra Y tế thuộc Sở Y tế;
Các tổ chức thanh tra quy định này có con dấu
riêng và tài khoản riêng. Thanh tra Bộ
là cơ quan của Bộ Y tế; có trách nhiệm
giúp Bộ trưởng Bộ Y tế thực hiên chức năng
quản lý nhà nước về công tác thanh tra,
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành
chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ Y tế. Thanh tra Sở
là cơ quan trực thuộc Sở, có trách nhiệm
giúp Giám đốc Sở Y tế cấp tỉnh thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của Giám đốc Sở Y tế. Thanh tra viên Y
tế (sau đây gọi tắt là Thanh tra viên) là
công chức nhà nước thuộc Bộ Y tế hoặc Sở Y
tế cấp tỉnh được bổ nhiệm và cấp thẻ Thanh tra
viên để thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại các tổ
chức Thanh tra Y tế. Cộng tác viên thanh tra
là người không thuộc biên chế của Thanh tra Y
tế, được Thanh tra Y tế hoặc cấp có thẩm quyền
trưng tập, làm nhiệm vụ thanh tra. Cộng tác
viên thanh tra chịu sự phân công của Thủ
trưởng cơ quan thanh tra và Trưởng đoàn Đoàn
thanh tra. Hoạt động thanh tra được thực hiện dưới
hình thức thanh tra theo chương trình, kế hoạch
và thanh tra đột xuất. Việc thanh tra được thực
hiện theo phương thức Đoàn thanh tra hoặc thanh tra
viên độc lập. Nghị định này có hiệu
lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng
Công báo.Nghị định này thay thế Điều lệ
Thanh tra nhà nước về y tế, ban hành kèm theo
Nghị định số 23/HĐBT ngày 24 tháng 01 năm 1991 của
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)./.
|
Ngày 07/08/2006
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
14/2006/NQ-CP Về phiên họp Chính phủ thường kỳ
tháng 7 năm 2006. |
Trong hai ngày 31
tháng 7 và 01 tháng 8 năm 2006, Chính phủ
họp phiên thường kỳ tháng 7, bàn và
quyết nghị các vấn đề sau: Về Chương trình
hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị
quyết kỳ họp thứ IX Quốc hội khoá XI về Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Chính phủ thảo luận và thông qua dự án
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá, do Bộ
trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ trình; dự
án Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, do Bộ
trưởng Bộ Y tế trình; dự án Luật Các
vùng biển Việt Nam, do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
trình; dự án Pháp lệnh Bảo vệ mục tiêu
quan trọng về an ninh quốc gia, do Bộ trưởng Bộ Công an
trình. Nhất trí bổ sung một số điều của
Nghị định số 132/2005/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm
2005 của Chính phủ về các quyền và nghĩa vụ
của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty
nhà nước theo nội dung trình của Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư. Thông qua dự thảo Nghị
định của Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư
trình với việc bỏ khoản 2 Điều 4 của dự thảo. Thông qua nội dung Nghị quyết về một số giải
pháp đẩy nhanh tiến độ bán nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước cho người đang thuê theo quy
định tại Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 7 năm
1994. Đối với dự thảo Nghị định về doanh nghiệp
khoa học công nghệ: Giao Bộ Khoa học và Công
nghệ chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính
phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu các
ý kiến tại phiên họp, tiếp tục hoàn chỉnh
dự thảo Nghị định và gửi lấy ý kiến
thành viên Chính phủ, báo cáo Thủ
tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Chính phủ nghe báo cáo về kết quả đàm
phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) do
Bộ trưởng Bộ Thương mại trình. Chính phủ
đã thảo luận Báo cáo kiểm điểm công
tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh
do Văn phòng Chính phủ trình. Chính
phủ đã xem xét Báo cáo tình
hình kinh tế - xã hội, báo cáo về kết
quả giao ban sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đầu tư
tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2006, do Bộ Kế
hoạch và Đầu tư trình; Báo cáo
tình hình thương mại tháng 7 năm 2006, do Bộ
Thương mại trình; Báo cáo về công
tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố
cáo Quý II năm 2006, do Thanh tra Chính phủ
trình./. |
Ngày 08/02/2006
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
75/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Giáo dục. |
Nghị định này quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Giáo dục về chương trình
giáo dục, sách giáo khoa và giáo
trình; thi kiểm tra và văn bằng, chứng chỉ trong
hệ thống giáo dục quốc dân; mạng lưới, tổ
chức, hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của nhà
trường và cơ sở giáo dục khác; chính
sách đối với nhà giáo; chính sách
đối với người học; kiểm định chất lượng giáo
dục; bảo đảm các điều kiện tài chính cho
giáo dục. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành chương trình giáo dục
mầm non và chương trình giáo dục ở các
cấp học của giáo dục phổ thông; quy định cụ
thể về chương trình giáo dục thường xuyên,
chương trình giáo dục cho trường, lớp dành
cho người tàn tật, khuyết tật; ban hành chương
trình khung các ngành đối với giáo dục
đại học, cao đẳng; chủ trì, phối hợp với Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ liên quan để ban
hành chương trình khung các ngành đối
với trung cấp chuyên nghiệp. Việc đánh
giá kết quả học tập, công nhận người học
hoàn thành chương trình môn học, cấp học
hoặc trình độ đào tạo bằng hình thức
kiểm tra, thi kết thúc môn học, thi tốt nghiệp
hoặc xét tốt nghiệp; kết quả kiểm tra, thi là
một căn cứ chủ yếu giúp nhà trường và
các cấp quản lý giáo dục đánh giá
chất lượng giáo dục. Việc công nhận tốt
nghiệp một cấp học hoặc một trình độ đào
tạo được thực hiện bằng: xét tốt nghiệp đối với
trung học cơ sở; thi tốt nghiệp đối với trung học phổ
thông, trung cấp, cao đẳng; thi tốt nghiệp hoặc bảo vệ
đồ án, khoá luận tốt nghiệp đối với
trình độ đại học; bảo vệ luận văn đối với
trình độ thạc sĩ; bảo vệ luận án đối với
trình độ tiến sĩ. Thẩm quyền cấp văn bằng của
hệ thống giáo dục quốc dân được quy định như
sau: Bằng tốt nghiệp trung học cơ sở do Trưởng Phòng
Giáo dục và Đào tạo cấp huyện cấp; Bằng
tốt nghiệp trung học phổ thông do Giám đốc Sở
Giáo dục và Đào tạo cấp; Bằng tốt nghiệp
trung cấp, Bằng tốt nghiệp cao đẳng, Bằng tốt nghiệp
đại học do Hiệu trưởng nhà trường, nơi tổ chức
đào tạo các trình độ tương ứng cấp; cơ
sở giáo dục đại học có trường đại học
thành viên thì Hiệu trưởng trường đại học
thành viên cấp bằng tốt nghiệp; Bằng thạc sĩ do
Hiệu trưởng trường đại học được phép đào
tạo trình độ thạc sĩ cấp; trường hợp viện
nghiên cứu khoa học được phép phối hợp với
trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ
thì Hiệu trưởng trường đại học cấp bằng thạc sĩ;
Bằng tiến sĩ do Hiệu trưởng trường đại học hoặc Viện
trưởng Viện nghiên cứu khoa học được phép
đào tạo trình độ tiến sĩ cấp. Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, theo thẩm quyền,
chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Nội vụ
hướng dẫn cơ sở giáo dục trong việc tuyển dụng,
quản lý, tham gia vào quá trình điều
động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
với nhà giáo, cán bộ, nhân viên đang
làm việc tại các cơ sở giáo dục công
lập; quy định chế độ làm việc của nhà
giáo ở các cấp học và trình độ
đào tạo. Đối tượng được xét cấp học
bổng khuyến khích học tập: Học sinh đạt kết quả
học tập xuất sắc ở trường chuyên, trường năng
khiếu; Người học có kết quả học tập, rèn
luyện từ loại khá trở lên ở các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học.
Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15
ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Các
quy định trước đây trái với Nghị định này
đều bãi bỏ./. |
Ngày 08/02/2006
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
76/2006/NĐ-CP Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tư pháp |
Nghị định này quy
định các hành vi vi phạm hành chính,
hình thức xử phạt, mức phạt, thẩm quyền xử phạt,
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thi hành án dân sự, công chứng,
chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư
pháp, giám định tư pháp, đăng ký giao
dịch bảo đảm, hợp đồng cho thuê tài chính,
hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, bán đấu
giá tài sản, trọng tài thương mại, phổ
biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp
lý, nuôi con nuôi. Các hành vi vi
phạm hành chính khác trong lĩnh vực tư
pháp không quy định tại Nghị định này
thì áp dụng quy định tại các nghị định
khác của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước
có liên quan để xử phạt. Thời hiệu xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp
là một năm, kể từ ngày vi phạm hành
chính được thực hiện. Nếu quá thời hiệu
nói trên mà vi phạm hành chính mới
bị phát hiện thì không tiến hành xử
phạt nhưng vẫn bị áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả quy định tại Nghị định này. Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố
hoặc có quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục tố tụng hình sự mà có quyết
định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ
án thì bị xử phạt vi phạm hành chính
nếu hành vi của người đó có dấu hiệu vi
phạm hành chính; trong thời hạn ba ngày, kể
từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra,
đình chỉ vụ án, người đã ra quyết định
phải gửi quyết định cho người có thẩm quyền xử
phạt; trong trường hợp này, thời hiệu xử phạt vi
phạm hành chính là ba tháng, kể từ
ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được
quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm.
Cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tư pháp bị áp
dụng một trong các hình thức xử phạt chính
sau: Cảnh cáo; Phạt tiền. Tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm
còn bị áp dụng một hoặc các hình thức
xử phạt bổ sung sau: Tịch thu tang vật, phương tiện được
sử dụng để vi phạm hành chính; Tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có
thời hạn hoặc không thời hạn. Tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm
hành chính còn bị áp dụng một hoặc
nhiều biện pháp khắc phục hậu quả. Người phải
thi hành án có hành vi cố tình
không nhận giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan
thi hành án, quyết định của Tòa án
hoặc đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần
thứ 2 nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy
báo, giấy triệu tập mà không có lý
do chính đáng sẽ bị phạt tiền từ 50.000 đến
200.000 đồng… Nếu người phải thi hành
án có các hành vi như: sử dụng trái
phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu
hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê
biên, phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại
tài sản đã kê biên thì có thể
bị phạt tiền từ 500.000 đến 1 triệu đồng…
Đối với vi phạm trong hoạt động công chứng, chứng
thực: phạt tiền từ 200.000 đến 500.000 đồng đối với
hành vi tự ý sửa chữa hoặc tẩy xóa
làm sai lệch nội dung của bản chính để làm
thủ tục yêu cầu công chứng, chứng thực… Nếu dùng giấy tờ giả hoặc dùng các thủ
đoạn gian dối khác để làm thủ tục công
chứng, chứng thực sẽ bị phạt từ 500.000 đồng đến 1
triệu đồng… Nghị định quy định rõ phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đến 100.000 đồng
đối với người có trách nhiệm phải đăng
ký khai sinh cho trẻ em không thực hiện việc đăng
ký trong thời hạn do pháp luật định, phạt tiền
từ 200.000 đến 500.000 đồng đối với hành vi gian dối
khi đăng ký kết hôn… Đối với vi phạm
trong hoạt động hành nghề luật sư. Nghị định quy
định rõ: Phạt tiền từ 1 đến 3 triệu đồng đối
với hành vi cho người khác sử dụng Chứng chỉ
hành nghề luật sư hoặc Giấy phép hành nghề
tại Việt Nam để hành nghề luật sư… Mức
phạt tiền từ 10 đến 20 triệu đồng được áp dụng
đối với các vi phạm: cá nhân, tổ chức
không đủ điều kiện hành nghề luật sư theo quy
định của pháp luật mà hành nghề luật sư
dưới bất kỳ hình thức nào, thông đồng,
dìm giá trong quá trình tham gia đấu
giá… Đối với văn phòng con nuôi
nước ngoài thực hiện các hoạt động khi giấy
phép đã quá hạn hoặc chưa được cấp giấy
phép đã hoạt động, thực hiện hoạt động về
nuôi con nhằm mục đích vụ lợi sẽ bị áp
dụng mức phạt tiền từ 15 đến 20 triệu đồng…
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể
từ ngày đăng Công báo./.
|
Ngày 09/08/2006 Bộ
trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết
định số 41/2006/QĐ-BTC Về giá định hướng bán
xăng, dầu năm 2006. |
Giá định hướng
(đã bao gồm thuế giá trị gia tăng) bán xăng,
dầu của một số chủng loại chuẩn ở nhiệt độ thực tế
được quy định thống nhất trong cả nước như sau:
Xăng không chì RON 92: 12.000 đồng/lít Xăng
không chì RON 90: 11.800 đồng/lít Xăng
không chì RON 83: 11.600 đồng/lít
Điêden 0,5%S: 8.600 đồng/lít Nhiên liệu
đốt lò (dầu ma dút) (FO N°2B): 6.000 đồng/
kilogam Giá các loại xăng, dầu khác do
các doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu quy định căn cứ
vào giá bán thực tế của các loại dầu
chuẩn trên cùng thị trường và chênh lệch
chất lượng so với các loại dầu nêu trên. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ các
doanh nghiệp phải tiết kiệm chi phí, nhất là chi
phí xăng, dầu, hạ giá thành. Trước mắt duy
trì giá bán điện, than hiện nay để góp
phần thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát
và tăng trưởng kinh tế năm 2006. Các đơn vị kinh
doanh xăng, dầu phải tiếp tục giảm 5% chi phí quản
lý doanh nghiệp so với năm 2005. Bộ Thương mại
chịu trách nhiệm chỉ đạo các doanh nghiệp kinh
doanh xăng, dầu kiểm kê hàng theo quy định hiện
hành khi điều chỉnh giá; đảm bảo đủ nguồn
hàng cung ứng, chống mọi hành vi găm hàng,
đầu cơ. Các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xăng,
dầu phải liên đới chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hành vi vi phạm giá bán
xăng, dầu của các đơn vị trực thuộc, đại lý
bán lẻ thuộc hệ thống phân phối của doanh nghiệp
mình. Trường hợp giá cả xăng, dầu trên
thị trường thế giới có biến động lớn, Tổng
công ty Xăng dầu Việt Nam và các doanh nghiệp
khác được Nhà nước giao nhiệm vụ nhập khẩu
và kinh doanh xăng, dầu có trách nhiệm điều
hoà cung cầu và phải đáp ứng đủ nhu cầu
xăng, dầu theo nhiệm vụ được giao. Sở Tài
chính các tỉnh, thành phố phối hợp với Sở
Thương mại, Chi cục Quản lý thị trường có
trách nhiệm kiểm tra tình hình thực hiện
giá bán xăng, dầu tại địa phương, kịp thời
phát hiện những sai phạm và xử lý trong phạm
vi quyền hạn của mình theo các quy định hiện
hành hoặc báo cáo các cơ quan có
thẩm quyền xử lý. Quyết định này có
hiệu lực thi hành kể từ 16 giờ 00 ngày 9
tháng 8 năm 2006 và thay thế Quyết định số
0747/2006/QĐ-BTM ngày 27/4/2006 của Bộ trưởng Bộ Thương
mại./. |
Ngày 27/07/2006
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
1037/2006/NQ-UBTVQH11 về giao dịch dân sự về nhà ở
được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người
Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia. |
Nghị quyết này
được áp dụng để giải quyết các giao dịch
dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân
được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham
gia, bao gồm: Thuê nhà ở; Mượn nhà ở, ở
nhờ nhà ở; Mua bán nhà ở; Đổi nhà ở;
Tặng cho nhà ở; Thừa kế nhà ở; Uỷ quyền quản
lý nhà ở giữa cá nhân với cá
nhân. Các loại nhà sau đây được coi
là đối tượng của các giao dịch thuộc phạm vi
áp dụng của Nghị quyết này: Nhà đang được
sử dụng vào mục đích không phải để ở
nhưng tại thời điểm xác lập giao dịch dân sự
trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 là nhà
ở;Nhà đang được sử dụng vào mục đích
để ở nhưng tại thời điểm xác lập giao dịch
dân sự trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 không
phải là nhà ở;Nhà đang được sử dụng
vào mục đích để ở nhưng tại thời điểm
xác lập giao dịch dân sự trước ngày 01
tháng 7 năm 1991 không xác định được mục
đích sử dụng. Các loại nhà sau
đây được coi là đối tượng của các giao
dịch thuộc phạm vi áp dụng của Nghị quyết này:
Nhà đang được sử dụng vào mục đích
không phải để ở nhưng tại thời điểm xác lập
giao dịch dân sự trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
là nhà ở;Nhà đang được sử dụng vào
mục đích để ở nhưng tại thời điểm xác lập
giao dịch dân sự trước ngày 01 tháng 7 năm 1991
không phải là nhà ở;Nhà đang được sử
dụng vào mục đích để ở nhưng tại thời điểm
xác lập giao dịch dân sự trước ngày 01
tháng 7 năm 1991 không xác định được mục
đích sử dụng. Tất cả người Việt Nam định cư
ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam đều
được phép xác lập quyền sở hữu đối với
nhà ở trước ngày 1/7/1991 (thời điểm trước khi
có Pháp lệnh Nhà ở)… Việt kiều
có thể tiếp tục cho thuê cho mượn nhà tại
Việt Nam, song phải có hợp đồng rõ ràng.
Trường hợp muốn lấy lại nhà phải thông báo
cho bên thuê, mượn trước 6-12 tháng. Cơ quan tổ
chức phải trả lại nhà cho Việt kiều có thể
thực hiện theo các phương thức: trả nhà ở đang
quản lý sử dụng, trả bằng nhà ở khác,
trả bằng tuền, nhà nước giao đất và họ
không phải trả tiền sử dụng đất… Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài được xác lập
quyền sở hữu nhà ở khi có các giấy tờ:
đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở, giấy tờ chứng minh là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, các hợp đồng cho
thuê, mượn, giấy tờ thừa kế, sơ đồ nhà ở
đất ở, hộ chiếu hợp lệ của Việt Nam hoặc của nước
ngoài Trường hợp sử dụng hộ chiếu nước ngoài
thì phải kèm theo giấy chứng nhận có quốc
tịch Việt Nam hoặc giấy xác nhận mất quốc tịch
Việt Nam hoặc giấy xác nhận đăng ký kinh
doanh… Nghị quyết có hiệu lực từ 1/9/2006./.
|
Ngày 31/07/2006
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
73/2006/NĐ-CP Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực dạy nghề. |
Nghị định này quy
định các hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực dạy nghề, hình thức xử phạt, mức phạt,
thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt và các
biện pháp khắc phục hậu quả.Vi phạm hành
chính trong lĩnh vực dạy nghề là những hành
vi vi phạm các quy định của pháp luật về dạy
nghề do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý nhưng không phải là
tội phạm và theo quy định của Pháp lệnh Xử
lý vi phạm hành chính và Nghị định
này phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực dạy nghề là một năm, kể từ ngày hành
vi vi phạm hành chính được thực hiện; đối với
các vi phạm hành chính trong lĩnh vực dạy
nghề có liên quan đến tài chính, sở hữu
trí tuệ, xây dựng, môi trường, nhà ở,
đất đai, xuất bản, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh,
nhập cảnh thì thời hiệu là hai năm; nếu quá
thời hạn nói trên thì không xử phạt,
nhưng vẫn áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả. Đối với cá nhân bị khởi tố, truy
tố hoặc có quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo thủ tục tố tụng hình sự nhưng sau đó
có quyết định đình chỉ điều tra hoặc
đình chỉ vụ án mà hành vi vi phạm
có dấu hiệu vi phạm hành chính trong lĩnh vực
dạy nghề thì bị xử phạt vi phạm hành
chính; trong trường hợp này, thời hiệu xử phạt
vi phạm hành chính là 3 tháng kể từ
ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được
quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm.
Trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều
này nếu cá nhân, tổ chức có hành vi
vi phạm hành chính mới trong lĩnh vực dạy nghề
hoặc cố tình trốn tránh, trì hoãn việc
xử phạt thì không áp dụng thời hiệu
nêu trên mà thời hiệu xử phạt vi phạm
hành chính được tính lại kể từ thời
điểm thực hiện hành vi vi phạm hành chính
mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi cố tình
trốn tránh, cản trở việc xử phạt. Cá
nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực dạy nghề, nếu qua một năm, kể từ ngày
chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày
hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà
không tái phạm thì được coi như chưa bị xử
phạt vi phạm hành chính. Đối với mỗi
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực dạy
nghề, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một
trong các hình thức xử phạt chính sau: Cảnh
cáo; Phạt tiền. Tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính trong lĩnh vực dạy nghề có thể bị áp
dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung
sau: Tước quyền sử dụng có thời hạn hoặc không
thời hạn quyết định thành lập hoặc quyết định cho
phép thành lập, giấy chứng nhận đăng ký
hoạt động; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng
để vi phạm hành chính; Trục xuất nếu là
người nước ngoài. Ngoài các hình
thức xử phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này, cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính trong lĩnh vực dạy nghề còn có thể bị
áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục
hậu quả sau đây: Buộc khôi phục lại tình
trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi vi phạm
hành chính gây ra; Buộc đình chỉ hoặc
chấm dứt hoạt động dạy nghề; Buộc huỷ bỏ kết quả
các môn thi hoặc chấm lại bài thi;…
Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15
ngày, kể từ ngày đăng Công báo.Bãi
bỏ Điều 9 Nghị định số 113/2004/NĐ-CP ngày 16
tháng 4 năm 2004 của Chính phủ quy định xử phạt
hành chính về hành vi vi phạm pháp luật
lao động. Các quy định khác về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực dạy nghề trái với
Nghị định này đều bãi bỏ./. |
|